Gia tộc Tào Quy_Nghĩa_quân

Tào Nghị Kim (曹議金) trở thành người cai trị khu vực vào năm 914, sau đó ông thủ tiêu Kim Sơn Quốc và lấy lại danh xưng Quy Nghĩa quân. Tào Nghị Kim kết hôn với nữ nhi của Thiên Mục khả hãn, và với sự đồng ý của Khả hãn, ông từng khiển các đoàn sứ giả đến triều Hậu Lương. Vào thập niên 920, Cam Châu Hồi Cốt xảy ra xung đột nội bộ, một nhi tử của Thiên Mục khả hãn là Nhân Mỹ (仁美) trở thành tân khả hãn, sau đó đệ của người này là Địch Ngân (狄銀) lại trở thành khả hãn. Khoảng thời gian đó, Tào Nghị Kim dẫn binh tiến hành viễn chinh tới Cam Châu và Túc Châu, tiến công Cam Châu Hồi Cốt. Cuộc viễn chinh giành được thắng lợi, Quy Nghĩa quân lại có thể liên hệ với phần còn lại của Trung Hoa. Năm 926, Địch Ngân qua đời, A Đốt Dục (阿咄欲) trở thành khả hãn của Cam Châu Hồi Cốt, A Đốt Dục kết hôn với một nữ nhi của Tào Nghị Kim. Cả Cam Châu Hồi Cốt và Quy Nghĩa quân đều cử đoàn sứ thần đến triều Hậu ĐườngTrung Nguyên vào năm 926.

Tào Nghị Kim qua đời vào năm 935, Quy Nghĩa quân về tay ba nhi tử của ông là Tào Nguyên Đức (曹元德) (cai trị 935-939), Tào Nguyên Thâm (曹元深) (cai trị 939-944), và Tào Nguyên Trung (曹元忠) (cai trị 944-974). Trong thời gian này, Quy Nghĩa quân từng khiển sứ thần sang Hậu Đường, Hậu Tấn, Đại Liêu của người Khiết Đan, Hậu Hán, Hậu Chu, và Bắc Tống.

Quy Nghĩa quân có một khoảng thời gian tương đối ổn định dưới sự cai trị của Tào Nguyên Trung. Nông nghiệp, giao thông và văn hóa được chú trọng phát triển,[6] đất đai được phân chia cho người dân. Các nỗ lực này giúp đảm bảo khả năng tiếp cận và trao đổi văn hóa qua hành lang Hà Tây. Thời kỳ này cũng nổi tiếng với nghề làm điêu bản ấn xoát kinh và tranh Phật được tìm thấy tại Đôn Hoàng.[7] Năm 1006, Khách Lạt hãn quốc diệt Vu Điền, tăng nhân trong các chùa viện ở Quy Nghĩa quân hết sức lo sợ, đem văn vật giấu vào trong các hang động, cũng chính là Đôn Hoàng di thư sau này.[8] Mặc dù vẫn diễn ra các cuộc xung đột quy mô nhỏ, mối quan hệ giữa Quy Nghĩa quân và Cam Châu Hồi Cốt tương đối tốt đẹp trong thời gian cai trị của Tào Nguyên Trung.

Sau khi Tào Nguyên Trung qua đời vào năm 974, hai nhi tử của ông là Tào Diên Cung (曹延恭) (cai trị 974-976) và Tào Diên Lộc (曹延祿) (cai trị 976-1002) lần lượt tiếp quản Quy Nghĩa quân. Năm 1002, xảy ra một cuộc nổi dậy tại Quy Nghĩa quân, tộc tử của Tào Diên Lộc là Tào Tông Thọ (曹宗壽) phải chạy trốn đến Qua châu. Tào Tông Thọ dâng biểu cho triều đình Bắc Tống nói rằng mình làm như vậy là do gặp nguy hiểm trước Tào Diên Lộc. Tào Tông Thọ sau đó dẫn loạn binh bao vây chính quyền ở Sa Châu. Tào Diên Lộc và Tào Diên Thụy (曹延瑞) tự sát, Tào Tông Thọ tiếp quản Quy Nghĩa quân.[9][10]

Sau khi Tào Tông Thọ qua đời vào năm 1014, nhi tử là Tào Hiền Thuận (曹賢順) kế nhiệm. Cả Tào Tông Thọ và Tào Hiền Thuận đều từng cử đoàn sứ thần sang Bắc Tống và Liêu. Không rõ về đoạn cuối trong lịch sử của Quy Nghĩa quân, khi đó người Đảng Hạng lân cận trở nên hùng mạnh. Khoảng năm 1028, người Đảng Hạng đánh bại Cam Châu Hồi Cốt và chiếm được Cam châu.[11] Khoảng năm 1030, Tào Hiền Thuận đầu hàng người Đảng Hạng.[11] Khoảng năm 1036, người Đảng Hạng chiếm Qua châu, Sa châu và Túc châu (肅州)- nay thuộc Tửu Tuyền.[11]